trang chủ

Dec 20, 2012

TÁC DỤNG TRỊ BỆNH CỦA BÁT QUÁI CHƯỞNG


    
Ở Trung Quốc, thậm chí trên toàn thế giới, người ta rất thích tập bài Thái Cực quyền, một trong những nguyên nhân đó là Thái cực quyền có hiệu quả rất tốt đối với việc giữ gìn sức khỏe và trị bệnh.
     Mấy năm gần đây, hiệu quả trị bệnh của Thái Cực quyền đã được nghiên cứu và chứng minh, thế nhưng đặc trưng của Thái Cực quyền trong các cuộc nghiên cứu này không phải là sự ứng dụng của động tác mềm mại và tròn trịa cùng với lực ý thức, mà được quyết định bởi sự vận động toàn thân một cách thích hợp, sự vận động hô hấp sâu… Đặc trưng này cũng phù hợp với Bát Quái chưởng, Bát Quái chưởng có cùng hiệu quả trị bệnh như Thái Cực quyền, ở đây xin được giải hích mấy điều về Bát Quái chưởng.
1.    Hiệu quả trị bệnh bình thường của Bát Quái chưởng.
·       Vì động tác mềm mại tròn trịa, trong khi luyện tập có thể khiến cho cơ bắp của toàn thân đạt đến sự thư thái khiến cho con người có cảm giác nhẹ nhàng, đại não cũng được nghỉ ngơi và yên tĩnh, cho nên có hiệu quả trị liệu đối với thần kinh. Ngoài ra, vì cơ bắp được thư giãn, huyết quản phản xạ cũng chậm lại, cho nên có hiệu quả rất tốt đối với những bệnh hạ huyết áp, cao huyết áp.
·       Vì tất cả mọi động tác đều thực hiện trong trạng thái có sự chỉ đạo của ý thức cao mà không cần dùng lực, do đó trong yên tĩnh đạt được sự tập trung tinh thần, sự hưng phấn đó và có thể kiểm soát, điều chỉnh hệ thống thần kinh một cách hiệu quả, đặc biệt đối với việc giải trừ áp lực.
·       Thuộc loại vận động mang tính toàn thân, do đó mỗi khi tập Bát Quái chưởng thì các cơ bắp và khớp của toàn thân đều được vận dụng, nếu luyện tập lâu dài, có thể khiến cho các khớp được vận động một cách linh hoạt, tính đàn hồi của các dây chằng cũng được cải thiện, đồng thời sức mạnh của cơ bắp cũng được tăng lên.
·       Hô hấp sâu và ổn định, hoàn toàn giống với nội công trong khí công, gần đây ở Trung Quốc người ta cho rằng có thể dùng loại khí công mới để trị liệu, gọi là Hành công, bởi vì phương pháp này là đi bộ để luyện công, nó có hiệu quả hoàn toàn giống như Bát Quái chưởng.
·       Theo cách luyện Thượng Trung Hạ bàn, có thể tiến hành luyện tập ở tư thế cao, cũng có thể tiến hành luyện tập ở tư thế thấp, tùy theo tình trạng của mỗi người mà có thể thay đổi, bất luận già trẻ gái trai mạnh hay yếu đều có thể luyện tập được.
·       Chỉ cần kiên trì luyện tập thì có thể mang lại sự cân bằng và sự hài hòa cho cơ thể.
2.    Ưu điểm của Bát Quái chưởng.
·       So với Thái Cực quyền, thì Bát Quái chưởng có ít hình thức, do đó nhớ dễ dàng, sau khi luyện quen thì có thể tổ hợp lại các bài Bát Quái chưởng đề bồi dưỡng sức sáng tạo.
·       Trái phải đều cân bằng, vừa đi trên vòng tròn, vừa thực hiện các động tác hai bên trái phải, vì không nghiêng vào bên nào, cho nên khiến cho toàn thân được vận động một cách cân bằng.
·       Ngoài việc đi trên vòng tròn, có thể giúp cho mọi người luyện tập sức khỏe, người luyện tập có thể luyện sức mạnh cho chi dưới và xương sống, giữ sức đàn hồi cho xương, phòng chống hiện tượng lão hóa, làm cho đôi chân được mạnh mẽ hơn, phòng ngừa các bệnh người già.
Từ phương pháp thể thao của tiến sĩ Kiều Bản mà nhìn nhận Bát Quái Chưởng:
Tiến sĩ Kiều Bản Kính Tam đã khai sáng ra môn thể thao pháp, gần đây đã đạt được nhiều kỳ thích và được giới y học quan tâm. Trong thể thao pháp, ông ta đã đưa ra bốn phương pháp hoạt động hít thở, ăn uống, vận động thân thể, hoạt động tinh thần, ông ta cho rằng đây là điều kiện tất yếu để con người tồn tại. Nếu những điều kiện này xa rời tự nhiên, cơ thể con người sẽ mất cân bằng.
Khi cơ thể mất cân bằng, người ta sẽ chữa trị bằng cách vận động các bộ phân khác. Ví dụ khi, vận động bằng gót chân và ngón chân sẽ trị liệu chứng căn cơ vai và đâu đầu… hoặc vận động cổ tay, khủy tay, vai, đầu có thể trị liệu chứng mất thăng bằng.
Động tác vặn xoáy trong Bát Quái chưởng là một mắt xích rất quan trọng, khi đổi chưởng, người ta đòi hỏi sự vận động từ khớp gối, eo, khủyu tay, cổ tay, ngón tay, sau khi xoay các bộ phận này, chúng ta mới tiến hành thức tiếp theo. Quá trình này hoàn toàn giống như bài tập thể thao mà tiến sĩ Kiều Bản Kính Tam đã đưa ra. Tác giả đã từng học môn thể thao này từ học trò của ông ta, khi luyện tập đã phát hiện ra rằng phương pháp này có điểm giống với Bát Quái chưởng, gần đây, người bệnh cao huyết áp, bệnh tiểu đường, bệnh béo phì, bệnh đau lưng, bệnh thần kinh, ngoại trừ chữa bệnh bằng cách châm cứu và thể thao, người ta cũng luyện tập Bát Quái Chưởng.

(Tác giả: Tùng Điền Long Trí, biên dịch: Hồ Tiến Huân, Bát Quái Chưởng, NXB Thể dục thể thao 2005)

Dec 9, 2012

TUYỆT CHIÊU TRONG VÕ THUẬT


Không ít người mới học võ rất tin tưởng vào các đòn đá tuyệt chiêu, mơ mộng rằng mình sẽ có một ngày có thể học được tuyệt chiêu nào đó để thành vô địch thiên hạ. Trên thực tế, bất cức một chiêu thức được gọi là “tuyệt chiêu” cũng đều có cách tương ứng để hóa giải, không có một “tuyệt chiêu” nào có thể chiến thắng tuyệt đối. Cho nên, trong “Thiếu Lâm quyền phổ” có viết: “chỉ có chiêu hay chứ không có tuyệt chiêu.” Nhưng phim ảnh võ thuật và tiểu thuyết võ hiệp đã hư cấu võ thuật thành huyền bí mê ly, khiến cho người ta khó nhận ra được bộ mặt thật của nó. Trong thời điểm gay cấn, có không ít cảnh nhân vật chính dùng “tuyệt chiêu “ để quyết định thắng bại, khiến cho người ta không phân biệt được hư thực, chân giả. Vậy thì, có người sẽ hỏi bạn chữ “tuyệt” trong “liên hoàn tuyệt cước” có ý nghĩa gì? Thật ra, “tuyệt cước” là loại cước pháp có độ khó cao mà quyết liệt, chứ không phải là loại cước pháp dẫn đến chiến thắng tuyệt đối. Bất cứ loại cước pháp cao siêu nào, nếu người học không hấp thu được, không tiêu hóa được, không dung hợp quán thông được, thì cũng chỉ là bàn chuyện đánh nhau trên giấy mà thôi. Sách này chuyên luận về cước pháp, đều thuộc loại cước pháp hay. Nếu như bạn có thể vận dụng đúng cách, ứng biến đúng lúc thì khi lâm chiến có thể dành quyền chủ động, khiến cho đòn chân của bạn trở thành xuất quỷ nhập thần cũng không phải là điều không thể được, đây là nói có “tuyệt chiêu” trong sự “không có tuyệt chiêu vậy”.


Gọi là “tuyệt chiêu” trong giao đấu thực tế là vì “quyền đả bất thức” (đánh mà không ai biết). Tức là những chiêu thức mà bạn sử dụng, đối phương chưa biết được sự lợi hại cũng như những sơ hở của nó. Vì vậy không thể đưa ra cách phòng thủ hữu hiệu đợt tấn công của bạn, mà cũng không thể đưa ra cách phản kích hữu hiệu đối với chiêu thức tấn công của bạn. Đối phương muốn phòng thủ cũng không xong, muốn phản kích cũng không được, cứ lúng túng mà lâm vào thế bị động. Trong các chiêu thức thuộc loại “quyền đả bất thức” này, có chiêu thức đánh lạc hướng đối phương, có chiêu thức tấn côn hiểm hóc, có chiêu thức vừa phòng thủ vừa phản kích, cũng có chiêu thức chủ động hoặc bị động ngã xuống đất để phản kích đối phương.
            Tóm lại, đối phương không biết được đòn thế của bạn, khiến cho bạn từ yếu thành mạnh, từ nguy hiểm thành an toàn, đều có thể gọi là “tuyệt chiêu”. Đương nhiên, đã được gọi là “tuyệt” thì động tác phải biến hóa khéo léo, ra đòn hiểm hóc, khiến đối phương bất ngờ, không thể phòng bị được. Đó cũng là những đặc điểm của “tuyệt chiêu”.
            Liên quan đến “tuyệt chiêu” còn có một thuyết nữa, người xưa gọi là phép “điểm huyệt bế khí”. Ở đây có dính dáng đến vấn đề võ đức, nếu sử dụng phép điểm huyệt bế khí bừa bãi thì trời đất không dung, người đời phỉ nhổ, pháp luật ngăn cấm. Thuật điểm huyệt bế khí trên thực tế là đánh vào những huyệt đạo thuộc hệ thống kinh lạc hay các bộ vị thuộc hệ thống thần kinh liên lạc với trung khu chỉ huy đại não, nặng thì mất mạng, nhẹ thì tê bại, ở mức độ vừa thì cũng có thể bị thương lục phủ ngũ tạng, hôn mê bất tỉnh. Thuật điểm huyệt bế khí là lối đánh bí truyền khá cao cấp, truy về nguồn gốc thì thuật này bắt đầu từ y học, được dùng vào múc đích nhân đạo. “Hoàng Đế Nội Kinh”, một quyển sách y học nổi tiếng thời cổ, cho rằng trên thì có thiên tượng, dưới thì có sống suối, giữa là chuyện con người, lấy ngũ hành lục khí nơi cơ thể con người phối hợp với âm dương của trời đất, lấy ngũ hành bốn mùa của trời đất ứng nghiệm vào các bộ vị trên cơ thể con người, thì có thể thấy được sự vi diệu. Điều này đã trải qua hơn hai ngàn năm mà không hề suy vi. Từ trong môn học tìm hiểu về con người để chửa bệnh, người học võ đã tìm ra được thuật điểm huyệt để đánh người.

            Thuật điểm huyệt bế khí đã trải qua một thời gian dài được các võ thuật gia không ngừng nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm, nội dung rất phong phú, trong đó gồm có: điểm huyệt (điểm vào huyệt), bế khí (làm cho khí bị bế tắt), phân cân (làm gân bị đứt), tiệt mạch (làm cho mạch bị nghẽn), thác cốt (làm sai khớp xương), chấn tạng (làm nội tạng bị chấn thương). Trong đó thuật phân cân, tiệt mạch, thác cốt thuộc về phạm vi môn cầm nã thủ, còn chấn tạng, điểm huyệt, bế khí là tinh túy của lối đánh điểm huyệt, trong đó lối điểm huyệt cách không là cao siêu nhất.
            Phàm những tuyệt chiêu có thể gọi là “tuyệt”, cũng đều có những cách kềm chế, bản thân nó cũng có tính hạn chế rất lớn. Thứ nhất là không thể luyện thành trong một hai năm, thứ hai là bị ước thúc bởi sức mạnh của lời thề (sức mạnh của lời thề là một loại sức mạnh tinh thần, là một sự thể hiện cao độ của năng lượng, không phải là mê tín, cũng không phải là thứ hư ảo nào đó, tất cả những thứ thuộc về năng lượng tinh thần đều có thể có được bằng phương pháp luyện tập tương ứng), điều thứ ba là không cách nào bạn có thể an nhiên sử dụng khi hoàn cảnh không cho phép. Bất cứ tuyệt chiêu nào, cũng chỉ có thể thực hiện trong một điều kiện nhất định nào đó.
            Đến đây bạn đã biết được trên đời này không có một tuyệt chiêu nào có thể đem lại chiến thắng tuyệt đối, bát cứ một chiêu thức nào cũng diều có chỗ sở trường và sở đoản của nó. Chỉ có tập luyện cho thật thuần thục kỹ thuật và trui rèn trong giao đấu thực tế, trải qua khảo nghiệm nhiều trường hợp, từ thuần thục mà sinh ra khéo léo, từ khéo léo mà đạt đến tinh hoa, khi đã đạt đến cảnh giới tinh hoa (tức chiêu thức đã được tiêu hóa và trở thành một với bản thân) thì chiêu nào cũng đều là “tuyệt”. Tập võ cũng như đi xe đạp, lúc mới tập đi xe đạp thì dù có đi đường bằng phẳng cũng sẽ bị té, đến khi thuần thục rồi thì sự điều khiển sẽ trở thành tự động, tâm vừa ghi nhận thông tin từ hoàn cảnh thì mọi hoạt động của cơ thể đều ứng theo, vì thế không còn bị ngã nữa. Tập võ cũng vậy, không thường giao đấu thì người giỏi võ cũng sẽ trở thành dở, vì nó cũng không như tập đi xe đạp vậy, lúc ra thực tế thì không hành động theo quyết định chủ quan được, mà về cơ bản là phải dựa vào kinh nghiệm thực tế đã tích lũy trong quá khứ. Trong các tình thế biến hóa phức tạp, bạn cần phải tùy cơ ứng biến. Một người đấu võ đã luyện đến cảnh giới tinh hoa thì mới có thể phát huy những chiêu thức mà mình tập luyện lúc bình thường thành những “tuyệt chiêu”. Nếu không, dù là một chiêu thức cao tuyệt đến đâu đi nữa, trong phản ứng của bạn nó cũng sẽ để lộ rất nhiều sơ hở (bạn cần chú ý thêm một điều là, thường thường, những chiêu thức cao tuyệt lại càng có nhiều sơ hở). Cho nên đối với tuyệt chiêu, một là bạn đừng quá sùng bái, hai là bạn phải khổ luyện. Luyện tập nhiều, giao đấu nhiều, thì bạn có thể biến cái bình thường thành kì tích. Trong giao đấu thực tế, bạn cần xác lập cho mình một lối đánh thói quen có đặc điểm phù hợp với mình, rồi lại luyện một vài chiêu lạ. Theo nguyên tắc “Binh bất yếm trá, kì chính tương sinh” (việc binh làm sao không có chuyện dối trá, phải lấy lối đánh bình thường và lối đánh đột ngột tương hổ cho nhau), luyện cho tới cảnh giới tinh hoa để hình thành những “tuyệt chiêu” của bản thân. Hư Hư thực thực, khiến cho đối phương không nhìn ra được chiêu số của bạn, bị bạn điều động và chi phối trong giao đấu thực tế. Khi làm được vậy thì bạn đã có tuyệt chiêu. Tuyệt chiêu vố là như thế! Đương nhiên kẻ mạnh còn có kẻ mạnh hơn, sau mỗi trận bạn phải tổng kết rút ra bài học từ phai phía, bao gồm cả việc lợi dụng kinh nghiệm của đối phương để không ngừng làm phong phú kinh nghiệm của mình, nâng cao trình độ giao đấu  thực tế của mình (bạn cần phải có vài lối đánh như thế), thì mới có thể duy trì trình độ “tuyệt”. Đó gọi là tuyệt chiêu mà không tuyệt, không tuyệt lại là tuyệt, tới lui phải trái, tránh né lạng lách, mọi động tác đều dung hội quán thông, tâm thái tự nhiên, không chút sơ sót, không chút miễn cưỡng, một chổ trên cơ thể mà động thì không chổ nào trên cơ thể là không động, một chổ phát kình thì không chổ nào là không phát kình, đạt tới cảnh giới tùy tâm ứng thủ một cách tự do thì mới là “tuyệt”.
            Khi thảo luận về tuyệt chiêu, bạn đừng quyên hai câu ngạn ngữ võ thuật: “lưỡng cường tương ngộ dũng giả thắng” (hai kẻ mạnh gặp nhau, ai can đảm hơn sẽ thắng), “nhất đảm, nhị lực,tam kỹ xảo” (nhất là can đảm, nhì là sức mạnh, ba là khéo léo). Sức mạnh và sự khéo léo đương nhiên là quan trọng, nhưng quạn trong hơn vẫn là lòng dũng cảm. Lòng dũng cảo làm bật ra sức mạnh của tâm lý. Đây là nội dung quan trọng trong luận thuyết tập luyện của môn phái Thiếu Lâm Kim Cang Thiền.
Trích trong: Thiếu Lâm Chính Tông Liên Hoàn Tuyệt Cước, NXB Phương Đông, 2006
(ảnh chỉ mang tính minh họa)