Những tranh cải
quanh môn phái lừng danh
Lâu
nay nói đến võ thuật Trung Hoa, người ta lập tức nghĩ ngay đến Thiếu Lâm vốn được
đất nước tỉ dân này quảng bá như một thương hiệu văn hóa quốc gia nên ít người
biết rằng, có rất nhiều môn công phu mà khả năng thực chiến hơn hẳn môn phái
Thiếu Lâm lừng danh. Hình Ý Quyền là một ví dụ. Là một trong ba loại quyền pháp
nổi tiếng nhất thuộc về nội gia quyền, Hình Ý quyền còn được giới võ lâm trung
quốc xếp vào danh sách “Tứ đại danh quyền” của võ thuật truyền thống. Từ đầu thời
nhà Thanh, khấp một dải đất rộng lớn từ Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc… không ai không
biết đến Hình Ý quyền. Đến đầu thế kỷ 20, Hình Ý quyền đã theo chân Hách Ân
Quang, một cao thủ Hình Ý quyền hiện đại vượt biển đến Nhật Bản. bắt đầu từ đó,
Hình Ý quyền bắt đầu lan rộng ra nhiều quốc gia Đông Nam Á. Nhật Bản thậm chí
là cả nước Mỹ xa xôi. Nhưng cũng vì lan truyền quá rộng với quá nhiều các chi
phái, càng về sau này, câu chuyện về nguồn gốc của Hình Ý quyền càng trở nên mơ
hồ và rối rắm. Và cuộc tranh luận “Anh sai tôi đúng” chẳng ai chịu ai cho đến tận
ngày nay vẫn chưa hứa hẹn một ngày kết thúc.
Trên
thực tế, những tranh cãi về Hình Ý quyền là hệ quả của hàng loạt sự nhầm lẫn mà
nguyên nhân, như đã nói chính là sự truyền bá rộng rãi cùng với việc tách ghép,
thành lập nhiều chi phái khác nhau cùng xuất phát từ môn phái này. Câu chuyện
có lẽ phải bắt đầu từ sự ra đời của Nội Gia quyền vào những năm cuối của thế kỷ
19.
Theo
những gì sử sách còn chép lại thì vào năm 1894, Bát quái quyền sư Trình Đình
Hoa (1848 – 1900) (đệ tử Đổng Hải Xuyên, người sáng lập ra Bát Quái chưởng),
Hình Ý quyền sư Lưu Vĩ Lan, Lý Tồn Nghĩa (1847 -1921) và Dương gia Thái Cực quyền
sư Lưu Đức Khoan (? – 1911) (Đệ tử Dương
Lộ Thiền) đề nghị hợp ba môn quyền thuật này lại làm một mô phái riêng biết lấy
tên là “Nội Gia quyền”… Chính vì sự kiện lịch sử này, Hình Ý quyền, Thái Cực
Quyền và Bát Quái Chưởng mới trở thành ba môn võ tiêu biểu của “nội gia quyền”
như ngày nay chúng ta biết đến. Điều đáng nói là, việc hợp thành một môn phái lấy
tên là Nội gia quyền đã khiến cho nhiều nhà lý luận và lịch sử võ thuật khi viết
về Nội gia quyền đã đánh đồng môn phái Nội gia quyền hiện đại với quyền pháp nội
gia quyền của phái Võ Đang do Trương Tam Phong sáng tạo ra. Và cũng từ đây người
ta bắt đầu coi Võ Đang và Trương Tam Phong là thủy tổ và Võ Đang là nơi phát
nguyên của Nội gia quyền.
Mọi
việc càng trở nên rối rấm hơn, khi trong các bộ quyền pháp của Võ Đang, người
ta lại tìm thấy một bộ quyền pháp cũng có tên là hình Ý quyền mà ngày nay vẫn gọi
là Hình Ý quyền Võ Đang. Điều này đã cũng cố
thêm cho quan điểm, Hình Ý Quyền cũng như các môn võ Nội gia khác có nguồn
gốc từ Võ Đang, đối lập với môn phái Thiếu Lâm, vốn là đại biểu của trường phái
Ngoại gia. Người ta càng tin chắc rằng chính tổ sư phái Võ Đang Trương Tam
Phong chính là người đã sáng tạo nên môn công phu nổi tiếng này. Nhưng mọi chuyện
vẫn chưa dừng lại ở đó. Lục lọi sách vỡ và các câu chuyện kể lưu truyền trong
dân gian, người ta còn tìm thấy một bộ quyền pháp cũng mang tên Hình Ý quyền do
Nhạc Phi, một danh tướng đời Tống sáng tạo nên. Và hiễn nhiên Nhạc Phi cũng trở
thành một thủy tổ của Bộ quyền pháp mà sau này lưu truyền vô cùng rộng rãi.
Một
thuyết khác lại cho rằng, Hình Ý quyền thực chất là một môn võ lưu truyền trong
dân gian của một bài quyền có tên gọi là Tâm Ý bả. Theo thuyết này thì Tâm Ý bả
là một trong những bài quyền xuất hiện rất sớm tại chùa Thiếu Lâm trên đỉnh
Tung Sơn, Hà Nam từ khi chùa mới được thành lập vào thời nhà Bắc Ngụy (384 -534)
dưới triều Hiếu Văn Đế (471 – 499). Người ta đã tìm thấy rất nhiều điểm tương
đông giữa Hình Ý quyền chính tông và bài quyền Tâm Ý Bả trên Thiếu Lâm Tự. Hơn
thế nữa, cả hai bộ quyền pháp này đều có nội dung phù hợp với phong thái cũng
như nội dung của giáo pháp Thiếu Lâm Quyền, đề cao sự hòa hợp Thân – Tâm trong
nội dung giáo lý của Phật giáo Thiền tông.
Thế
là một môn tuyệt kỹ có đến tận 3 nguồn gốc với ba người sáng lập khác nhau mà
người nào cũng có vô số những tín đồ trung thành sẵn sàng bảo vệ đến cùng cho
những tín niệm của mình. Có điều, sự thực, người sáng tạo ra Hình Ý quyền lại
hoàn toàn không phải là những vị đại sư danh giá lừng lẫy mà người ta đem ra để
tranh cãi.
Truyền thuyết về
ông tổ thực sự của Hình Ý quyền.
Người
sáng lập ra Hình Ý quền trên sự thực là Cơ Tế Khả, một sư sỹ ở tỉnh Sơn Tây sống
vào thời kỳ cuối Minh đầu Thanh. Lần theo những gh chép của các chi phái Hình Ý
quyền ở Hà Nam, Hà Bắc, Sơn Tây, người ta phát hiện ra rằng, dù tồn tại với nhiều
tên gọi khác nhau nhưng các bộ quyền pháp hình Ý quyền hiện đại đều có gốc gác
từ bộ quyền pháp mang tên Lục Hợp Quyền có nguồn gốc từ Sơn Tây mà ông tổ của bộ
quyền pháp này, theo những ghi chép chính xác từ sử liệu chính là Cơ Tế Khả.
Cơ
Tế Khả (1602 – 1683), tự là Long Phong, người huyện Bồ Châu, tỉnh Sơn Tây. Ngay
từ khi còn rất nhỏ, Co tế khả đã thích côn quyền cước pháp. Bồ Châu, sơn Tây là
một vùng đát chuộng võ thuật nên người luyện cũng như người dạy võ nhiều không
kể hết. Từ khi lên 5, Cơ Tế Khả đã được gia đình mời thầy dậy võ nổi tiếng
trong vùng về tận nhà chỉ điểm. Thế nên, trong suốt nhiều năm tuổi thơ, cậu bé
Cơ Tế Khả vẫn ngày luyện võ, đêm học Thi Thư. Nhờ dụng công học tập, lại thông
minh đĩnh ngộ hơn người, không lâu sau đó, Cơ Tế khả đx trở thành một thành
niên văn võ song toàn.
Chuyện
kể rằng, một ngày, cậu thanh niên cường tráng nhà họ Cơ đang luyện võ bên bờ
sông Hoàng Hà thì không biết một ông lão râu tóc bạc phơ từ đâu xuất hiện. Thấy
cậu thanh niên trẻ trung, tráng kiện đang hăng say luyện quyền cước, ông lão chống
gậy đứng lại chăm chú nhìn từ động tác. Rồi vừa vuốt râu vừa gật đầu mỉm cười,
ông lão đã đứng yên ở một góc xem Cơ Tế Khả luyện Chín chín tám mươi mốt lần
bài quyền cho đến khi toàn lưng cậu ướt đẫm mồi hôi. Đến khi Cơ Tế Khả dừng lại
nghĩ, ông lão mới nhẹ nhàng vuốt chòm râu bạc nói: “Chàng trai trẻ! Ta đứng đây
từ nãy xem cậu luyện võ, thấy quyền cước của cậu cũng không tệ đâu, căn cơ cũng
có thể coi là chắc chắn rồi. Có điều nhãn thần của cậu thì hơi kém. Tốt nhất là
cậu nên vào cái hồ ở trong thôn mà rửa mắt đi rồi hãy luyện tiếp”.
Nghe
ông lão nói, Cơ Tế Khả cũng bán tín bán nghi nhưng nghĩ rằng mình luyện tập đã
mệt, mồ hôi ướt đẫm cẩ áo nên quyết định làm theo lời của ông lão ra hồ nước của
thôn rữa mũi và mắt. Đến khi Cơ Tế Khả quay lại bãi đất ven sông thì ông lão
tóc bạc đã đi tự khi nào. Trong lòng chàng trai trẻ Cơ Tế khả bỗng nhiên có
chút hoài nghi, Bèn theo lời ông lão thử đi một vài đường quyền. Vừa mới vung
tay, Cơ Tế Khả đã cảm thấy quyền pháp của mình trở nên linh hoạt và mạnh mẽ hơ
hẳn so với một lúc trước đây. Đến lúc đó, Cơ Tế Khả mới giật mình: “đây chính
là dị nhân đã chỉ điểm, dạy cho ta bí quyết luyện quyền pháp rồi!”. Từ đó trở về
sau, hàng ngày Cơ Tế Khả vẫn theo thói quen đến bến sông Hoàng Hà để luyện tập
võ nghệ. Nhưng khác với trước đây, sau khi luyện công xong, Cơ Tế Khả lại vòa
thôn lấy nước hồ rửa mắt. Càng luyện, Cơ Tế Khả càng thấy võ công của mình tăng
tiến vượt bậc. không chỉ quyền pháp trở nên mạnh mẽ linh hoạt mà công lực cũng
tiến bộ hơn rất nhiều so với trước đó. Cũng trong thời gian ấy, Cơ Tế Khả luyện
thành công phu “Phi mã điểm duyên đầu” (cưỡi ngựa chọc xà nhà) độc nhất vô nhị,
khiến nhiều người phải thán phục. Mình cưỡi ngựa, tay cầm thương, Cơ Tế khả
phóng như bây trên đường rồi dùng thương chộc vào những xà nhà lộ ra dưới mái
hiên. Thương pháp của Cơ Tế Khả tinh diệu đến mức, ông muốn dùng thương đâm vào
chiếc xà nào là đâm trúng mà đều là đâm trung tâm của cây xà. Hơn nữa, những
chiếc xà bị đâm trúng không chiếc nào còn nguyên vẹn dưới ngọn thương cường
mãnh của ông. Cũng nhờ quyền pháp hơn người, thương pháp lại tuyệt luân khó
bì,nên những cao thủ trong vòng trâm dặm ai cũng ngưỡng mộ Cơ Tế Khả là “thần
thương tiêu tướng”
Là
một cao thủ thân đầy võ nghệ thế nhưng Cơ Tế Khả hoàn toàn không phải là kẻ võ
phu, hữu dũng vô mưu. Ngày luyện võ, đêm học Kinh Thư, rùi mài kinh sử nên
ngoài võ công hơn người, Cơ Tế Khả còn là một người mang nặng ảnh hưởng của nền
giáo dục Nho gia truyền thống. Chính vì thế , sinh ra và lớn lên trong thời kì
người Mãn tấn ông Trung Nguyên, lật đổ nhà Minh , thành lập nên đế chế Thanh
triều của Người Mãn, Cơ Tế Khả là một trong những nhân sỹ Hán tộc mang tư tưởng
phản Thanh phục Minh rất mạnh mẽ.
Sau
khi thiết lập sự cai trị của chính quyền Thanh triều, tầng lớp quý tộc Mãn tộc
đã ra sức bóc lột áp bức những người Hán, Khiến mâu thuẫn dân tộc Hán – Mãn trở
nên căng thẳng. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến hàng loạt những cuộc khởi nghĩa phản Thanh phục Minh
trong suốt nhiều chục năm đầu sau khi nhà Thanh được thành lập. Cơ Tế Khả cũng
là một người tham gia tích cực trong những hoạt động chống đối triều đình ngoại
tộc này. Rời bỏ quê hương Sơn Tây, Cơ Tế Khả đi khắp nơi trong cả nước tìm kiếm
kế sách diệt Thanh phục Minh.
Một
lần, trên đường đến Hà Nam, khi đến ngọn núi Trung Điều, nơi giáp ranh giữa
Bình Lục và Nhuế Thành, Cơ Tế Khả đã gặp phải một khe núi sâu ngăn lối đi. Trời
sắp tối không thể quay trở lại được nữa, Cơ Tế Khả quất ngựa phóng lên phía trước
định nhảy qua khe núi sâu. Không may, con ngựa sợ bóng tối nhẩy không đủ lực,
trượt chân ngã xuống khe núi. Trong tình cảnh ngàn cân treo sợi tóc đó, Cơ Tế
Khả vẫn không haong mang. Buông dây cương, hai tây chống lên lưng ngựa rồi tung
người lên phía trên. Sau cú xoay người ngoạn mục, Cơ Tế Khả đã nắm được một
cành cây nhỏ mọc ra trên vách đá cheo leo giữa khe núi sâu, thoát chết chỉ
trong gang tấc. Trong đêm đó, Cơ Tế Khả đến Hà Nam bình yên vô sự.
Vào
thời điểm đó, Thiếu Lâm Tự ở Tung Sơn Hà Nam là một trong những căn cứ lớn của
lực lượng kháng Thanh phục Minh. Thời ấy, do nhu cầu lực lượng cho các cuộc
khởi nghĩa, việc chiêu mộ môn đồ của Thiếu Lâm Tự lấy cuộc đấu tranh kháng
Thanh làm mục tiêu hàng đầu. Nhưng cũng vì tham gia cuộc kháng Thanh này mà Thiếu
Lâm Tự một lần nữa vang danh thiên hạ.
Cơ
Tế Khả ở tận Sơn Tây nghe tiếng Thiếu Lâm Tự là nơi những người có chí kháng
Thanh thường xuyên lui tới mới không quản ngàn dặm xa xôi tìm đến chốn thánh địa
của võ lâm này. Tại đây, Cơ Tế Khả đã quen biết rất nhiều các chí sỹ cùng chí
hướng Họ cùng nhau sống ở Thiếu Lâm Tự, bàn chuyện chính sự, giao lưu võ nghệ,
mư tính đại sự phục hưng một ương triều đã sụp đỗ mà họ một lòng trung thành. Ở
Thiếu Lâm tự, với võ công hơn người, lại am tường kinh sử, Cơ Tế Khả nhận được sự
tán thưởng của không ít tăng nhân Thiếu Lâm, các môn sinh Thiếu Lâm Tự cũng như
các cao thủ võ lâm thường xuyên lui tới. Sau đó ít lâu, người ta tôn Cơ Tế Khả
lên hàng phu tử và yêu cầu ông dạy võ cho những môn sinh tìm đến Thiếu Lâm theo
tiếng gọi kháng Thanh phục Minh.
Có
cơ hội cọ xát với võ nghệ tinh diệu của Thiếu Lâm Tự, vùng đất thánh của võ lâm
cùng rất nhiều các môn phái trên khắp cả nước đã giúp võ công của Cơ Tế Khả một
lần nữa đại tiến. Là người có chữ nghĩa, ngoài việc rèn luyện trao đổi võ công,
Cơ Tế Khả không ngừng mày mò, tìm hiểu những chổ yếu của bản thân để sửa đổi,
bù lấp. Và cuối cùng, sau nhiều năm mày mò nghiên cứu, Cơ Tế Khả đã sáng tạo
nên bộ quyền pháp Hình Ý quyền nổi tiếng sau này.
Câu
chuyện về sự ra đời của Hình Ý quyền có đôi chút ngẫu hứng và ly kỳ. Người ta kể
rằng, sau đó, Cơ Tế Khả nổi tiếng với thương pháp đặc biệt là công phu “Điểm duyên công” (chọc
xà nhà), sau gọi là Lục Hợp Thương. Nhưng vì khi đó, phong trào khởi nghĩa
kháng Thanh phát triển quá mạnh mẽ, nên triều đình nhà Thanh quyết định ra lệnh
cấm không cho người dân cất giữ vũ khí trong nhà, thương pháp tuyệt luân của Cơ
Tế Khả trở thành thanh kiếm báu không tìm được đất dụng võ. Không muốn mai một
bộ thương pháp tuyệt luân của mình, trong suốt thời gian ở Thiếu Lâm Tự dạy võ,
Cơ Tế Khả vẫn trăn trở tìm cách truyền thụ Lục Hợp Thương cho hậu thế.
Một
ngày, đang luyện công trước cửa đại điện, Cơ Tế Khả bỗng nhìn thấy ngoài sân có
hai con gà trống đang đánh nhau. Nhìn hình tư thế của hai con gà trong trận ác
chiến, Cơ Tế Khả như bi mê hoặc, không dứt ra được. Đột nhiên, một linh cảm bỗng
đến với Cơ Tế Khả.Ông nghĩ, cổ nhân đã ừng sáng tạo nên Ngũ Cầm hý chẳng phải
cũng lấy ý tưởng từ những cuộc ác đấu giành sự sống của các loài chim trong thế
giới tự nhiên đó sao? Vì sao ta không thể sáng tạo nên một bộ quyền pháp kết hợp
giữa Lục Hợp thương với thế đánh của con gà trống kia? Nghĩ vậy, Cơ Tế Khả bắt
đầu quan sát kỹ lưỡng các thế đánh của con gà rồi tìm cách kết hợp với Lục Hợp
thương tinh xảo của mình để sáng tạo nên một bộ quyền pháp mới. Sau đó, ông còn
kết hợp luôn 5 loại quyền pháp Thiếu Lâm mô phỏng thể đánh của các loài thú
trong tự nhiên như Long, Hổ, Báo, Xà, Hạc và cuối cùng đã sáng tạo nên một bộ
quyền pháp độc đáo riêng của mình. Ban đầu, Cơ Tế Khả đặt tên cho bộ quyền
pháp này là Hình Ý Lục Hợp quyền, tức “Tâm hợp với ý, ý hợp với khí, khí hợp với
lực, vai hợp với hông, hông hợp với chân, tay hợp với chân”.
Sau
khi Cơ Tế Khả sáng tạo nên Hình Ý lục Hợp quyền, để truyền bá rộng rãi bộ quyền
pháp của chính mình ngay trên mảnh đất thánh của võ lâm Thiếu Lâm Tự là điều
hoàn toàn không dễ. Chính vì vậy, khi đó, Cơ Tế Khả đã tuyên truyền rằng, trong
tời gian bôn ba khắp nơi, ông ta từng bái sư ở núi Chung Nam và ngẫu nhiên có
được cuốn quyền phổ bí truyền của Nhạc Vũ Mục, tức Nhạc Phi, một danh tướng chống
Kim nổi tiếng thời Nam Tống. Với danh nghĩa Nhạc Phi, một người được người dân
Trung Quốc cũng như những người yêu võ thuật sùng bái như một vị thánh của
“lòng tinh trung báo quốc” nên tại thời điểm đó, Hình Ý Lục Hợp quyền của Cơ Tế
Khả được rất nhiều người theo học. Đây cũng chính là lý do vì sao, sau này nhiều
người lại tìm thấy quyền pháp Hình Ý quyền như một tuyệt kỹ bí truyền của vị
danh tướng đời Tống, Nhạc Phi. Ngoài ra, việc Cơ Tế Khả sống và dạy võ suốt một
thời gian dài ở Thiếu Lâm Tự cũng là nguyên nhân dẫn đến việc người ta tìm thấy
bộ quyền pháp tướng đối giống với Hình Ý quyền, và cho rằng Hình Ý quyền bắt
nguồn từ môn phái Thiếu Lâm.
Cuộc phiêu lưu rắc
rối của tuyệt kỷ Lục Hợp quyền.
Hơn
10 năm sống ở Thiếu Lâm Tự với hùng tâm tráng chí về một ngày phục dựng lại
vương triều nhà Minh nhưng nhìn cảnh giang sơn nhà Thanh ngày một được củng cố
vững chắc, cái hùng tâm tráng hí xưa kia dần tan biến như bong bóng. Chẳng thể
nào làm khác được nữa, Cơ Tế Khả đành rời Thiếu Lâm Tự trở về quê hương, ở võ
quán thu nhận đệ tử, truyền dạy võ công, sống qua quãng đời còn lại. Hình Ý Lục
Hợp quyền cũng từ đây bắt đầu cuộc phiêu lưu rắc rối làm điên đầu nhiều nhà
nghiên cứu sau này.
Ngoài
truyền dạy Hình Ý Lục Hợp quyền cho 6 người con của mình, Cơ Tế Khả còn truyền
môn tuyệt kỹ này cho 2 người ngoại tộc là Tào Kế Võ. Tào Kế Võ là một vị danh
tướng làm quan dưới triều Hoàng đế Khang Hy nhà Thanh. Sau này, Tào đem bộ quyền
pháp này dạy lại cho hai anh em Đới Long Bang và Đới Lăng Bang, đều là người tỉnh
Sơn Tây và một người Hà Nam khác tên là Mã Học Lễ. Từ hai nhân vật Đới Long
Bang và Mã Học Lễ, môn phái Hình Ý Lục hợp quyền bắt đầu phân chia thành nhiều
nhánh khác nhau.
Từ
Mã Học Lễ, bắt đầu chi nhánh Hình Ý Lục Hợp Quyền Hà Nam, lấy tên là Tâm Ý Lục
Hợp Quyền. Mã Học Lễ chỉ lưu truyền môn võ này cho những người theo đạo Hồi.
Sau này Lự Khao Cao là người đầu tiên không phải người Hồi được học Tâm Ý Lục Hợp
quyền.
Trong
khi đó, Đới long Bang dạy Hình Ý Lục Hợp quyền cho hai con là Văn Lương và Văn
Huân và một người ngoại tộc là Lý Lạc Năng, còn được gọi là Năng Nhiên. Đới Văn
Lương và Đới Văn Huân chỉ truyền dạy cho con cháu, không truyền Hình Ý Lục Hợp
quyền ra bên ngoài. Mãi tới Đới Khôi, do không có con trai nên mới chịu truyền
môn võ này cho người ngoài. Từ đó, Hình Ý Lục Hợp quyền chi phái Sơn Tây mới phổ
biến với tên gọi là Tâm Ý quyền.
Một
nhánh khác bắt nguồn từ đệ tử ngoại tộc của Đới Long Bang là Lý Lạc Năng. Lý Lạc
Năng vốn là người Hà Bắc, nên sau khi đến Sơn Tây theo học Đới Long Bang, Lý trở
về quê thu nhận đệ tử truyền dạy võ công. Từ đó, một nhánh khác của Hình Ý Lục
Hợp quyền mới bắt đầu thịnh truyền ở Hà Bắc với tên gọi là Hình Ý quyền. Do
truyền bá rộng rãi, môn phái của Lý Lạc Năng được nhiều người biết tới hơn hai
chi phái Tâm Ý quyền của Sơn Tây và Tâm Ý Lục Hợp quyền ở Hà Nam. Sau này, nhiều
đệ tử của Hình Ý quyền đều là những võ lâm cao thủ nổi tiếng trong khắp cả nước
vì vậy, tên gốc của Hình Ý Lục Hợp quyền mà Cơ Tế Khả sáng tạo ra dần dần được
nhiều người gọi là Hình Ý quyền theo tên gọi của chi phái Lý Lạc Năng sáng tạo
nên. Lý Tồn Nghĩa, người sau này đã “có công” hợp nhất ba môn phái Hình Ý quyền,
Bát Quái chưởng và Thái Cực Quyền, sáng lập nên môn Nội Gia quyền chính đồng thời
tạo nên sự nhầm lẫn và những cuộc tranh cãi không ngớt sau này chính là đệ tử của
Lưu Kỳ Lan, một trong 8 đại đệ tử chính tông của Lý Lạc Năng. Nói cách khác,
môn Hình Ý quyền Hà Bắc thịnh truyền ngày nay trên thực tế là một trong ba chi
phái của Hình Ý Lục Hợp quyền có nguồn gốc từ Cơ Tế Khả cùng với Tâm Ý quyền ở
Sơn Tây và Tâm Ý Lục Hợp quyền ở Hà Nam.
Chiến
đấu pháp của Hình Ý quyền có thể tóm gọn trong hai câu: “khoái công trực thủ, hậu
phát tiên chí” (tấn công nhanh trên đường thẳng, đi sâu tới trước), “thiếp thân
kháo đả, dĩ đoãn chế trường” (đến sát thân ddihj vừa hất vừa đánh, dùng đòn ngắn
thắng đòn dài). Những môn đồ của Hình Ý quyền chuyên đánh trên đường thẳng, nhập
vào trung môn, nên không cho địch thủ có cơ hội phát triển đòn công và tuy ra đòn
sau nhưng đòn lại tới trước. tuy nhiên mỗi chi phái lại có mang một đặc điểm đấu
pháp khác nhau.
Chi
phái Hà Bắc đòn thế ngắn gọn, đơ giản dựa trên 17 thế căn bản của Ngũ Hành quyền
và Thập Nhị Hình quyền. Chi phái Sơn Tây gần với chi phái Hà Bắc hơn. Các bài
quyền của chi phái này bao gồm Ngũ Hành Quyền, Thập Đại Hình, Giao Tế tứ bả,
Ngũ Thãng hạp thế… chi phái Hà Nam thì khác hẳn hai hệ phái trên, đòn thế rộng
hơn, mạnh bạo hơn, căn bản chỉ có Thập Đại Hình quyền, Quyền thuật có những bài
như Thập Đại Hình, Tứ Bả trùy…
Điều
đáng nói là mặc dù là một môn phái có nguồn gốc từ miền Bắc Trung Quốc, nơi võ
thuật rất chú trọng và phát triển cước pháp nhưng Hình Ý quyền lại chủ yếu phát
triển quyền pháp với những đòn thế đơn giản và mạnh bạo. Những đòn chân trong
Hình Ý quyền thường không ao quá bụng, nhưng chắc chắn và cương ngạnh. Cũng có
lẽ vì lý do này Hình Ý quyền vẫn tồn tại trong làng võ như một đóa kỳ hoa hàm
chứa nhiều bí ẩn.
(sưu tầm và số hóa: Lâm Lai Hưng)
(sưu tầm và số hóa: Lâm Lai Hưng)
No comments:
Post a Comment